Pháp luật can thiệp, xử lý thế nào đối với trường hợp vi phạm chế độ một vợ, một chồng?

|

Câu hỏi: Kết hôn và chung sống với nhau trên 10 năm, chúng tôi đã có hai con chung. Những năm gần đây do công việc làm ăn với nhiều hoàn cảnh bên ngoài tác động, chồng tôi một thời gian dài đã có các mối quan hệ khác, có thời gian đã gần như công khai sống với người phụ nữ ấy. Tôi muốn được biết việc làm của chồng tôi như vậy đã vi phạm vào quy định nào của luật pháp, có vi phạm về hình sự không. Trong trường hợp cụ thể đó thì pháp luật sẽ can thiệp, xử lý thế nào?

 Hoàng Lệ Quyên (Cam Ranh)

Trả lời: Về tình nghĩa vợ chồng, tinh thần của Luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận rằng vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.

Hành vi vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật có chế tài xử lý. Tùy thuộc mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ, các hành vi: người đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ thì có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

Về trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự hiện hành, tại Điều 182 về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định:

“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.

Cần lưu ý để có sự phân biệt về hành vi chung sống như vợ chồng.

Hành vi chung sống như vợ chồng và việc xử lý trách nhiệm hình sự được liên ngành Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC như sau: Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó ...

Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.

Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...

b) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Với các quy định pháp luật chúng tôi trích dẫn ra trên đây, hy vọng có thể giúp bạn có được cách nhìn rõ hơn trước sự việc xẩy ra của vợ chồng bạn.

Luật sư Nguyễn Thiện Hùng